Viêm tai giữa cấp là gì? Các công bố khoa học về Viêm tai giữa cấp

Viêm tai giữa cấp là một trạng thái viêm nhiễm trong tai giữa (có thể gọi là ống tai), thường xuất hiện sau một cảm lạnh hoặc một cơn cúm. Triệu chứng của viêm ...

Viêm tai giữa cấp là một trạng thái viêm nhiễm trong tai giữa (có thể gọi là ống tai), thường xuất hiện sau một cảm lạnh hoặc một cơn cúm. Triệu chứng của viêm tai giữa cấp bao gồm đau tai, hợp nhất tai, ngứa ngáy, xuất hiện chất nhầy trong tai. Nếu không được điều trị, viêm tai giữa cấp có thể dẫn đến viêm tai mạn tính hoặc các vấn đề liên quan khác như mất thính lực tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Khi mắc viêm tai giữa cấp, có một số dấu hiệu và triệu chứng thường gặp. Dấu hiệu đầu tiên bao gồm đau tai, thường là một cơn đau nhức và khó chịu khá hơn vào ban đêm. Đau tai có thể lan ra vùng quanh tai và cả vùng mặt. Một số người có thể bị đau đầu và khó thở do viêm và phù ống tai.

Triệu chứng khác bao gồm hợp nhất tai, tức là cảm giác tai đầy và bị nghẹt. Cảm giác tai bị nghẹt có thể khiến bạn cảm thấy như đang nghe muffled hoặc không rõ ràng. Đôi khi, bạn có thể thấy chảy dịch từ tai, có thể là nước tiểu hoặc dịch mủ. Ngứa ngáy trên cánh mũi và họng cũng có thể xuất hiện.

Viêm tai giữa cấp thường xảy ra sau một cảm lạnh hoặc một cơn cúm. Khi bạn bị cảm lạnh, vi khuẩn hoặc virut có thể lây lan từ mũi hoặc họng qua ống tai và gây viêm nhiễm. Các vi khuẩn thường gây viêm tai giữa cấp bao gồm Streptococcus pneumoniae và Haemophilus influenzae.

Để chẩn đoán viêm tai giữa cấp, bạn nên đến gặp bác sĩ để được kiểm tra tai của mình. Bác sĩ có thể sử dụng một công cụ được gọi là otoscope để nhìn vào tai và xác định xem có viêm nhiễm hay không. Nếu có nghi ngờ viêm tai giữa cấp, bác sĩ có thể yêu cầu một xét nghiệm vi khuẩn để xác định loại vi khuẩn gây ra nhiễm trùng và quyết định liệu liệu pháp điều trị nào sẽ phù hợp.

Điều trị viêm tai giữa cấp thường bao gồm sử dụng thuốc như kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn gây nhiễm trùng và thuốc giảm đau để giảm triệu chứng đau tai. Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể khuyên người bệnh sử dụng nhiệt ẩm hoặc bồn tắm ấm để làm giảm đau tai và giảm ngứa ngáy.

Nếu triệu chứng không giảm trong vòng một vài ngày hoặc nếu có dấu hiệu nhiễm trùng nặng, bác sĩ có thể tiến hành thủ thuật để xã hội lượng dịch nhiễm trùng từ tai. Tuy nhiên, thủ thuật này thường chỉ được sử dụng trong những trường hợp hiếm gặp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm tai giữa cấp":

Hướng Dẫn Thực Hành Lâm Säng: Viêm Tai Giữa Có Dịch (Cập Nhật) Dịch bởi AI
Otolaryngology - Head and Neck Surgery - Tập 154 Số S1 - 2016
Mục tiêu

Cập nhật này của mã hướng dẫn năm 2004 được đồng phát triển bởi Hiệp hội Tai Mũi Họng Hoa Kỳ – Quỹ Phẫu thuật Cổ và Đầu, Hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ và Hiệp hội Bác sĩ Gia đình Hoa Kỳ, cung cấp các khuyến nghị dựa trên chứng cứ để quản lý viêm tai giữa có dịch (OME), được định nghĩa là sự hiện diện của dịch trong tai giữa mà không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của nhiễm trùng tai cấp tính. Những thay đổi từ hướng dẫn trước bao gồm việc thêm các nhà vận động cộng đồng vào nhóm cập nhật, chứng cứ từ 4 hướng dẫn thực hành lâm sàng mới, 20 tổng quan hệ thống mới và 49 thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên, nhấn mạnh hơn về giáo dục bệnh nhân và quyết định chia sẻ, một thuật toán mới để làm rõ mối quan hệ giữa các tuyên bố hành động, cùng các khuyến nghị mới và mở rộng cho chẩn đoán và quản lý OME.

Mục đích

Mục tiêu của hướng dẫn đa ngành này là xác định các cơ hội cải thiện chất lượng trong việc quản lý OME và tạo ra các khuyến nghị cụ thể và có thể thực hiện để triển khai những cơ hội này trong thực hành lâm sàng. Cụ thể, các mục tiêu là cải thiện độ chính xác chẩn đoán, xác định trẻ em có nguy cơ nhất đối với những di chứng phát triển từ OME, và giáo dục các bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân về lịch sử tự nhiên thuận lợi của hầu hết OME và lợi ích lâm sàng của liệu pháp y tế (ví dụ, corticosteroid, thuốc kháng histamin, thuốc giảm nghẹt mũi). Các mục tiêu bổ sung liên quan đến giám sát OME, đánh giá thính lực và ngôn ngữ, và quản lý OME được phát hiện qua screening sơ sinh. Bệnh nhân mục tiêu cho hướng dẫn này là trẻ em từ 2 tháng đến 12 tuổi bị OME, có hoặc không có khuyết tật phát triển hoặc các bệnh lý tiềm ẩn tạo nguy cơ cho OME và các biến chứng của nó. Hướng dẫn này được dành cho tất cả các bác sĩ lâm sàng có khả năng chẩn đoán và quản lý trẻ em bị OME, và nó áp dụng cho bất kỳ môi trường nào mà OME có thể được xác định, theo dõi hoặc quản lý. Tuy nhiên, hướng dẫn này không áp dụng cho bệnh nhân <2 tháng hoặc >12 tuổi.

Các Tuyên bố Hành động

Nhóm cập nhật đã đưa ra các khuyến nghị mạnh mẽ rằng các bác sĩ lâm sàng (1) nên ghi nhận sự hiện diện của dịch tai giữa bằng cách soi tai khí nén khi chẩn đoán OME ở trẻ em; (2) nên thực hiện soi tai khí nén để đánh giá OME ở trẻ em có triệu chứng đau tai, mất thính lực, hoặc cả hai; (3) nên thực hiện ghi âm màng nhĩ ở trẻ em nghi ngờ có OME khi chẩn đoán không rõ ràng sau khi thực hiện (hoặc cố gắng) soi tai khí nén; (4) nên quản lý trẻ em bị OME với không có nguy cơ bằng cách theo dõi chờ đợi trong 3 tháng từ ngày bắt đầu có dịch (nếu biết) hoặc 3 tháng từ ngày chẩn đoán (nếu không biết thời gian bắt đầu); (5) nên khuyến nghị tránh sử dụng corticosteroid tại chỗ hoặc toàn thân để điều trị OME; (6) nên khuyến nghị tránh sử dụng kháng sinh toàn thân để điều trị OME; và (7) nên khuyến nghị tránh sử dụng thuốc kháng histamin, thuốc giảm nghẹt mũi, hoặc cả hai để điều trị OME.

Nhóm cập nhật đã đưa ra các khuyến nghị rằng các bác sĩ lâm sàng (1) nên ghi trong hồ sơ y tế việc tư vấn phụ huynh của trẻ sơ sinh bị OME thất bại trong screening sơ sinh về tầm quan trọng của việc theo dõi để đảm bảo thính lực bình thường khi OME hết và để loại trừ mất thính lực cảm giác thần kinh tiềm ẩn; (2) nên xác định xem trẻ em bị OME có tăng nguy cơ gặp các vấn đề về phát âm, ngôn ngữ, hoặc học tập từ dịch tai giữa do các yếu tố cảm giác, thể chất, nhận thức hoặc hành vi cơ bản hay không; (3) nên đánh giá trẻ em có nguy cơ trong việc chẩn đoán tình trạng có nguy cơ và ở độ tuổi 12 đến 18 tháng (nếu được chẩn đoán là có nguy cơ trước thời điểm này); (4) không nên thường xuyên sàng lọc trẻ em không có nguy cơ và không có triệu chứng có thể được quy cho OME, chẳng hạn như khó khăn về thính lực, vấn đề thăng bằng (tiền đình), hiệu suất học tập kém, vấn đề hành vi, hoặc khó chịu ở tai; (5) nên giáo dục trẻ em bị OME và gia đình của họ về lịch sử tự nhiên của OME, nhu cầu về sự theo dõi và các di chứng có thể xảy ra; (6) nên thực hiện kiểm tra thính lực thích hợp theo độ tuổi khi OME kéo dài 3 tháng trở lên HOẶC đối với OME kéo dài ở trẻ có nguy cơ; (7) nên tư vấn cho gia đình của trẻ em có OME hai bên và có mất thính lực đã được ghi nhận về tác động tiềm ẩn lên phát âm và sự phát triển ngôn ngữ; (8) nên đánh giá lại, cách khoảng 3 đến 6 tháng, trẻ em bị OME mạn tính cho đến khi dịch không còn hiện diện, thính lực bị mất nghiêm trọng được xác định hoặc nghi ngờ dị dạng cấu trúc của màng nhĩ hoặc tai giữa; (9) nên khuyến nghị ống thông màng nhĩ khi phẫu thuật thực hiện cho OME ở trẻ em <4 tuổi; phẫu thuật cắt amidan không nên được thực hiện trừ khi có chỉ định cụ thể (tắc nghẽn mũi, viêm amiđan mãn tính); (10) nên khuyến nghị ống thông màng nhĩ, phẫu thuật cắt amiđan, hoặc cả hai khi phẫu thuật thực hiện cho OME ở trẻ em ≥4 tuổi; và (11) nên ghi nhận giải quyết OME, cải thiện thính lực, hoặc chất lượng cuộc sống khi quản lý một đứa trẻ bị OME.

Immunostimulant như một liệu pháp bổ trợ đối với nồng độ thụ thể giống Toll ở trẻ em mắc viêm tai giữa cấp tính Dịch bởi AI
The Egyptian Journal of Otolaryngology - - 2020
Tóm tắt Giới thiệu

Viêm tai giữa cấp tính (AOM) là nhiễm trùng vi khuẩn phổ biến nhất ở trẻ em, ảnh hưởng đến tới 75% trẻ em vào một thời điểm nào đó trước 5 tuổi. AOM là một trong những lý do chính cho việc kê đơn kháng sinh ở bệnh nhi ngoại trú. Nghiên cứu này nhằm phát hiện giá trị của liệu pháp kích thích miễn dịch (immunostimulant) như một liệu pháp bổ trợ với kháng sinh trong điều trị viêm tai giữa cấp tính ở trẻ em. Nghiên cứu này bao gồm 60 trẻ em mắc viêm tai giữa cấp tính; độ tuổi của các em từ 3 đến 5 tuổi trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019. Các bệnh nhân trong nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: nhóm A bao gồm 30 bệnh nhân mắc AOM được điều trị bằng kháng sinh amoxicillin và acid clavulanic trong đợt bùng phát AOM. Nhóm B bao gồm 30 bệnh nhân mắc AOM được điều trị bằng cùng một kháng sinh kèm theo liệu pháp kích thích miễn dịch (Chiết xuất Echinacea) trong 3 tháng. Mẫu máu được lấy từ tất cả bệnh nhân để phát hiện nồng độ thụ thể giống Toll bằng phương pháp PCR thời gian thực, trước và sau 3 tháng điều trị bằng kháng sinh và liệu pháp kích thích miễn dịch. Tất cả các trường hợp đều được đánh giá bao gồm thu thập tiền sử bệnh, khám tai mũi họng và lấy mẫu máu để phát hiện nồng độ thụ thể giống Toll (TLR) trước và sau liệu pháp bằng phương pháp PCR thời gian thực.

Kết quả

Có sự giảm đáng kể (P < 0.05) về biểu hiện TLR2 ở những bệnh nhân điều trị bằng kháng sinh so với biểu hiện trước khi điều trị. Mặt khác, có sự gia tăng đáng kể (P < 0.05) về biểu hiện TLR2 ở những bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh cộng với liệu pháp kích thích miễn dịch so với biểu hiện trước khi điều trị; có sự gia tăng rất lớn (P < 0.001) về biểu hiện của TLR2 ở nhóm điều trị bằng kháng sinh cộng với liệu pháp kích thích miễn dịch so với nhóm điều trị bằng kháng sinh đơn thuần.

Kết luận

Vai trò của kháng sinh đối với nhiễm trùng vi khuẩn gây ra viêm tai giữa cấp tính có thể được nâng cao bằng cách sử dụng liệu pháp kích thích miễn dịch, qua đó làm tăng biểu hiện các thụ thể giống Toll, đóng vai trò chính trong việc kích thích hệ thống miễn dịch chống lại nhiễm trùng vi khuẩn.

ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VỚI HÌNH ẢNH NỘI SOI VIÊM TAI GIỮA CẤP Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN E TRONG GIAI ĐOẠN NĂM 2019 – 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Viêm tai giữa cấp (VTGC) là tình trạng nhiễm trùng, ứ đọng dịch trong tai giữa. Bệnh thường khởi phát đột ngột trong thời gian ngắn, với các triệu chứng lâm sàng và hình ảnh nội soi liên quan với nhau. Mục tiêu: Đối chiếu đặc điểm lâm sàng với hình ảnh nội soi viêm tai giữa cấp ở trẻ em tại Bệnh viện E trong giai đoạn 2019 - 2020. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 40 bệnh nhân dưới 16 tuổi, được chẩn đoán VTGC, được điều trị tại khoa Tai Mũi Họng của Bệnh viện E từ tháng 9/2019 đến 4/2020. Kết quả và bàn luận: Sốt nhẹ: 37,5%, sốt vừa: 20%, sốt cao: 22,5%; Đau tai nhẹ chiếm 40%, đau tai nhiều 25%; Không chảy tai 77,5%, chảy tai chiếm 22,5%; Màng nhĩ sung huyết chiếm 35%, màng nhĩ phồng ứ mủ 42,5%, màng nhĩ thủng 22,5%.  Kết luận: Kết hợp giữa triệu chứng lâm sàng với hình ảnh nội soi giúp chẩn đoán xác định và chẩn đoán giai đoạn của viêm tai giữa cấp từ đó đưa ra hướng dẫn điều trị cụ thể và phù hợp.
#Viêm tai giữa cấp
Đặc điểm phân tử và độ nhạy kháng sinh của Staphylococcus aureus được phân lập từ trẻ em mắc viêm tai giữa cấp tính tại Liuzhou, Trung Quốc Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 18 - Trang 1-8 - 2018
Có ít nghiên cứu tập trung vào sự phổ biến, nguyên nhân vi khuẩn, khả năng kháng kháng sinh và nền tảng di truyền của Staphylococcus aureus (S. aureus) ở trẻ em mắc viêm tai giữa cấp tính (AOM) tại Trung Quốc. Một nghiên cứu hồi cứu đã được thực hiện tại Bệnh viện Sản Nhi Liuzhou. Những bệnh nhân dưới 18 tuổi được chẩn đoán mắc AOM đã được tuyển chọn tham gia nghiên cứu. Mẫu dịch tai giữa đã được thu thập và nuôi cấy để phát hiện các tác nhân vi khuẩn. Sự nhạy cảm với kháng sinh, các gen virulence, các gen kháng macrolide và các kiểu gen của S. aureus đã được xác định. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2013 đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, tổng cộng có 228 trường hợp AOM được xác định. Vi khuẩn gây bệnh có mặt trong 181 (79.4%) trong tổng số 228 mẫu. Streptococcus pneumoniae là loại vi khuẩn phổ biến nhất (36.4%), tiếp theo là S. aureus (16.2%). Trong số 37 mẫu phân lập S. aureus, có 12 (23.5%) là S. aureus kháng methicillin (MRSA), và 25 (77.5%) là S. aureus nhạy cảm với methicillin (MSSA). Tổng cộng 23 mẫu phân lập (62.2%) kháng erythromycin, 40.5% mẫu phân lập kháng clindamycin, và 37.8% mẫu phân lập kháng tetracycline. Hai mươi ba mẫu phân lập là S. aureus kháng đa thuốc (MDR). Mười tám mẫu phân lập mang gen pvl. Lên đến 22 (59.4%) mẫu biểu hiện gen ermA, 8 (21.6%) mẫu biểu hiện cả hai gen ermA và ermC, và chỉ có 8.1% biểu hiện gen ermB. Trong tổng số các mẫu phân lập S.aureus, 7 kiểu gen (STs) đã được xác định bằng phương pháp phân tích kiểu gen đa vị trí (MLST). Kiểu gen ST phổ biến nhất là ST59 (16/37, 43.2%), tiếp theo là ST45 (7/37, 18.9%) và ST30 (7/37, 18.9%). Các mẫu MSSA chiếm ưu thế là ST59-t437-MSSA (5/25, 20.0%), các mẫu MRSA chiếm ưu thế là các chủng liên quan đến Đài Loan ST59-SCCmec-IVa/V (5/12, 41.6%). S. aureus là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây AOM ở trẻ em tại Liuzhou. Hầu hết S. aureus là MDR và mang mức cao gen ermA và ermC. CA-MRSA (ST59-SCCmec-IV/V-t437) đang lưu hành ở trẻ em mắc AOM. Những phát hiện này hỗ trợ việc tiếp tục giám sát các nhiễm trùng S. aureus ở trẻ em mắc AOM tại cả cộng đồng và bệnh viện.
#Staphylococcus aureus #viêm tai giữa cấp tính #trẻ em #kháng kháng sinh #gen virulence
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VIÊM TAI GIỮA CẤP TRẺ EM VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐẶT ỐNG THÔNG KHÍ MÀNG NHĨ TẠI CẦN THƠ NĂM 2020-2022
Đặt vấn đề: Hình thái lâm sàng viêm tai giữa cấp ngày nay đã biến đổi rất nhiều nên người thầy thuốc rất dễ bỏ sót các triệu chứng kín đáo, âm thầm ở trẻ em. Nhĩ lượng đồ là một phương pháp khách quan giúp ta đánh giá những tổn thương tai giữa trong viêm tai giữa cấp. Phẫu thuật đặt ống thông khí nhằm dẫn lưu dịch mủ, khôi phục lại sự thông khí của hòm nhĩ, giảm bớt các đợt viêm tai giữa cấp tái diễn và đưa kháng sinh tại chỗ giúp điều trị viêm tai giữa cấp hiệu quả hơn. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng viêm tai giữa cấp trẻ em, đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi đặt ống thông khí màng nhĩ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 99 tai bị viêm tai giữa cấp được điều trị phẫu thuật nội soi đặt ống thông khí màng nhĩ, nghiên cứu mô tả tiến cứu có can thiệp, chọn mẫu thuận tiện. Kết quả: Đặc điểm lâm sàng: đau tai chiếm 87,7%, sốt 21,1%, triệu chứng thực thể: màng nhĩ phồng: 66,7%. Nhĩ lượng đồ: nhĩ đồ phẳng 81,8%. Thời gian khô tai: 2,1 tuần. Biến chứng sau đặt OTK: chảy tai (10.1%), tắc OTK (1%). Kết luận: Phẫu thuật đặt ống thông khí qua màng nhĩ là phẫu thuật rất hiệu quả trong điều trị viêm tai giữa cấp.
#Viêm tai giữa cấp #phẫu thuật nội soi đặt ống thông khí màng nhĩ #nhĩ lượng đồ
Những quan điểm của phụ huynh về viêm tai giữa cấp tính (AOM) và liệu pháp điều trị ở trẻ em - kết quả của một cuộc khảo sát khám phá tại các cơ sở chăm sóc trẻ em ở Đức Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 15 - Trang 1-12 - 2015
Viêm tai giữa cấp tính (AOM) là một trong những lý do chính khiến phụ huynh tìm kiếm sự tư vấn y tế và sử dụng kháng sinh trong thời thơ ấu. Mặc dù 80% trường hợp AOM tự khỏi, việc kê đơn kháng sinh vẫn cao, một phần do các yếu tố liên quan tới bác sĩ hoặc phụ huynh. Nghiên cứu này nhằm xác định kiến thức của phụ huynh về AOM, niềm tin và thái độ của họ cũng như những trải nghiệm liên quan đến AOM và liệu pháp điều trị, từ đó hiểu rõ hơn về quan điểm của phụ huynh trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Đức. Một cuộc khảo sát khám phá đã được thực hiện đối với các phụ huynh nói tiếng Đức có con từ 2 đến 7 tuổi gửi trẻ đến các cơ sở chăm sóc trẻ em. Các cơ sở chăm sóc trẻ em được tuyển chọn bằng phương pháp lấy mẫu thuận tiện từ các khu đô thị và nông thôn khác nhau ở Đức, và tất cả phụ huynh có con ở những cơ sở đó đều được mời tham gia. Dữ liệu được đánh giá bằng các phân tích thống kê mô tả. Có 138 phụ huynh tham gia. Trong số đó, 75,4% (n = 104) có kinh nghiệm về AOM và 75,4% (n = 104) có hai hoặc nhiều hơn trẻ em. Sáu mươi sáu phần trăm đồng ý rằng vi khuẩn gây ra AOM. 20,2% đồng ý rằng virus gây ra AOM. 30,5% không đồng ý rằng virus gây ra AOM. Tám phần trăm đồng ý rằng AOM tự hết, trong khi 53,6% không đồng ý. 92,5% (45,7% đồng ý hoàn toàn) và 42,8% đồng ý một phần rằng AOM cần điều trị bằng kháng sinh. Về tác dụng của kháng sinh, 56,6% đồng ý rằng kháng sinh giúp giảm đau tai nhanh chóng. 60,1% đồng ý rằng kháng sinh ảnh hưởng đến đường tiêu hóa và 77,5% đồng ý rằng kháng sinh có thể trở nên kém hiệu quả sau khi sử dụng thường xuyên. Khoảng 40% hỗ trợ và khoảng 40% phản đối chiến lược "chờ và xem" trong điều trị AOM. Những trải nghiệm do phụ huynh báo cáo cho thấy kháng sinh thường được kê đơn hơn nhiều (70,2%) so với việc phụ huynh yêu cầu (26,9%). Quan điểm của phụ huynh về AOM, liệu pháp điều trị và tác dụng của kháng sinh cho thấy sự không chắc chắn, đặc biệt là về nguyên nhân, diễn biến tự nhiên của bệnh và tác dụng của kháng sinh đối với AOM. Những kết quả này chỉ ra rằng cần có thông tin dựa trên bằng chứng nhiều hơn nếu muốn nâng cao hiểu biết về sức khỏe của phụ huynh trong điều trị trẻ em mắc AOM. Sự khác biệt giữa các yêu cầu kháng sinh do phụ huynh báo cáo và các kê đơn thực tế contradicts giả thuyết về ảnh hưởng cao của phụ huynh đối với việc sử dụng kháng sinh trong AOM.
#viêm tai giữa cấp tính #AOM #kháng sinh #kiến thức phụ huynh #liệu pháp điều trị #khảo sát khám phá #Đức
Mẫu mài có ảnh hưởng đến kết quả tạo màng nhĩ ở trẻ em Ai Cập? Một nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu Dịch bởi AI
The Egyptian Journal of Otolaryngology - Tập 36 - Trang 1-6 - 2020
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá và so sánh kết quả phẫu thuật và nghe được của việc tạo màng nhĩ (tympanoplasty) bằng cách sử dụng ghép màng thái dương (temporalis fascia) và sụn tai (tragal cartilage) với hoặc không có nổi xương chũm (mastoidectomy) ở trẻ em mắc viêm tai giữa mủ mãn tính kiểu ống tai (tubotympanic). Hai trăm trẻ em mắc viêm tai giữa mủ mãn tính kiểu ống tai có thủng đã được đưa vào nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu này. Chúng được chia ngẫu nhiên thành bốn nhóm bằng nhau dựa trên loại phẫu thuật thực hiện. Nhóm I thực hiện tạo màng nhĩ bằng ghép màng thái dương và nổi xương chũm, trong khi ở nhóm II, sụn tai được dùng làm ghép kết hợp với nổi xương chũm. Nhóm III và IV thực hiện mà không có nổi xương chũm, với sụn tai cho nhóm III và màng thái dương cho nhóm IV. Theo dõi trong một năm đã được thực hiện cho tất cả các bệnh nhân để đánh giá thành công ghép (mean không có thủng hoặc rút lại). Đánh giá thính giác được thực hiện cho tất cả trẻ em trước phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật đối với các bệnh nhân có ghép thành công. Có 170 bệnh nhân (85%) có thành công ghép sau phẫu thuật. Việc tạo màng nhĩ bằng ghép màng thái dương cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê cao (P < 0.001) khi so với sụn tai về việc cải thiện khả năng nghe ở các bệnh nhân có ghép thành công, trong khi không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thành công của ghép (P = 0.039). Cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các kỹ thuật khác nhau có hoặc không có nổi xương chũm (P = 0.165). Tạo màng nhĩ bằng ghép màng thái dương mà không cần nổi xương chũm là phẫu thuật ưu tiên cho trẻ em từ 10 đến 16 tuổi với thủng màng nhĩ, vì nó cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê cao khi so với ghép sụn tai về việc cải thiện khả năng nghe, mà không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ ghép thành công.
#tympanoplasty #ghép màng thái dương #sụn tai #viêm tai giữa mủ mãn tính #trẻ em #nổi xương chũm #tỷ lệ ghép thành công
25. Thực trạng bệnh hô hấp trên tại 6 bệnh viện khu vực giáp vịnh Bắc Bộ từ năm 2017-2021
Mục tiêu: nhằm đánh giá mô hình bệnh lý viêm đường hô hấp trên tại các tỉnh thuộc khu vực giáp Vịnh Bắc bộ. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang, thống kê các bệnh lý viêm đường hô hấp trên tại 6 bệnh viện tỉnh: Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Thanh Hoá, Quảng Ninh. Kết quả: số người bệnh nhập viện do bệnh lý viêm đường hô hấp trên từ năm 2017 - 2021 lần lượt là là 12.265, 18.832, 19.762, 8.102, 6.899; số lượt khám lần lượt là 81.211, 101.902, 105.764, 21.167, 19.675. Số người bệnh đến khám và nhập viện do bệnh viêm đường hô hấp trên của các tỉnh cao nhất vào năm 2019 và thấp nhất vào năm 2021. Tỷ lệ mắc bệnh viêm đường hô hấp trên cao nhất ở Thanh Hoá: 20,5%, thấp nhất ở Ninh Bình: 9,2%. Các huyện, thành phố hay gặp nhất của các tỉnh là những nơi phát triển các khu công nghiệp mà chưa có hệ thống kiểm soát ô nhiễm không khí quy chuẩn. Bệnh hay gặp ở dưới 6 tuổi là viêm tai giữa cấp với tỷ lệ 61%. Các bệnh mạn tính chủ yếu gặp viêm mũi xoang dị ứng chiếm 13% chủ yếu ở nhóm tuổi ≥ 6 - 16 tuổi (38%) và > 16 - 60 chiếm 41%. Kết luận: Bằng chứng cho việc hiểu mô hình bệnh lý viêm đường hô hấp trên giúp cho việc dự phòng bệnh tốt hơn.
#bệnh lý viêm nhiễm đường hô hấp trên #viêm tai giữa cấp #viêm mũi #viêm mũi xoang #viêm VA #viêm Amidan #viêm thanh quản #viêm mũi họng
Tổng số: 8   
  • 1